Văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là bài văn tế thấm đẫm lòng từ bi, hướng đến những linh hồn không nơi nương tựa, phiêu bạt giữa luân hồi. Bài văn mang ý nghĩa cầu nguyện và an ủi, giúp chúng sinh được giải thoát khỏi khổ đau và tìm thấy sự an lành.

Khái quát về văn tế thập loại chúng sinh

Đây là một tác phẩm văn học và tâm linh đặc sắc, sáng tác bởi nhà thơ Nguyễn Du trong thời kỳ cuối đời Lê – đầu nhà Nguyễn. Bài văn tế này không chỉ thể hiện lòng từ bi của tác giả đối với những số phận bất hạnh, mà còn là tiếng nói đồng cảm với những linh hồn không nơi nương tựa, vất vưởng giữa thế giới người và cõi âm.

Văn tế thập loại chúng sinh là gì?
Văn tế thập loại chúng sinh là gì?

“Thập loại chúng sinh” chỉ mười loại chúng sinh không may mắn, gồm những người chết yểu, người bị đọa đày, kẻ nghèo khổ, phụ nữ cô đơn hay những chiến sĩ tử trận, trẻ em chết yểu… Văn tế thập loại chúng sinh có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, được sử dụng trong các nghi thức tâm linh, như cầu siêu và các lễ hội cúng cô hồn.

Nội dung văn tế thập loại chúng sinh

Nội dung của Văn Tế được viết bằng thể văn song thất lục bát, mang âm điệu trang nghiêm và thấm đượm nỗi xót thương. Tác phẩm được chia thành nhiều đoạn nhỏ, mỗi đoạn nhắc đến một loại chúng sinh bất hạnh, nói lên hoàn cảnh và khổ đau của họ.

Nghi thức tụng văn tế thập loại chúng sinh
Nghi thức tụng văn tế thập loại chúng sinh

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh…

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.

oOo

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gámh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà Cô Hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay

Kinh luân găm một túi đầy

Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma mồ nấm chung quanh

Ngàn vàng khôn đổi được mình

Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

Cô Hồn thất thểu dọc ngang

Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà không kẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm

Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy

Dẫn mình vào thành thị lân la

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.

Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô Hồn nhờ gửi tha phương

Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán

Đòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính

Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan

Nước khe cơm vắt gian nan

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời

Buổi chiến trận mạng người như rác

Phận đã đành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh

Nắm xương chôn rấp góc thành

Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế xót xa

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối

Cũng có người sẩy cối sa cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì sa nanh sói ngà voi

Có người hay đẻ không nuôi

Có người sa sẩy có người khốn thương.

 

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là điếm cỏ bóng cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là nương Thần từ, Phật tự

Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết

Ruột héo khô dạ rét căm căm

Dãi dầu trong mấy mươi năm

Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.

 

Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng: ”Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo

Của có khi bát cháo nén nhang

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ

Phép thiêng biến ít thành nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng có có không không.

Nam-mô chư Phật, Pháp, Tăng

Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Kết luận

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là lời cầu nguyện từ bi dành cho chúng sinh không nơi nương tựa. Đây là hành động cứu độ, mang lại an lạc cho cả người sống và người đã khuất.

tác giả kinh sám hối

Nguyễn Vipel

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *